Triết Học Hiện Sinh
Triết học hiện sinh đã ghi dấu đậm trong lịch sử triết học. Nói gì thì nói, nó đã là triết học nổi bật nhất của thế kỷ XX. Trước nó, những năm đầu thế kỷ XX cho đến khi nó chào đời, Âu châu đã trải qua những năm sinh hoạt triết học trầm trầm và buồn tẻ. Triết hiện sinh đã xuất hiện rầm rộ, gần như một tiếng sấm vang động cả trời đất, lay động xã hội Tây phương một cách mạnh mẽ như chưa từng thấy trong lịch sử. Dầu bị xấu tiếng phần nào do cái bọt bèo của nó, do cách sống quá tự do của “phong trào hiện sinh” của những kẻ “ăn theo”, triết hiện sinh vẫn giữ được những giá trị đích thực của nó với những đề tài đặc trưng của nó như: Tự do, tự quyết, quyết chọn (option), vươn lên, độc đáo, thân phận con người, dấn thân... Cho nên gạt qua một bên cái phần bọt bèo của nó, triết hiện sinh nói chung, dầu là triết học Sartre, dầu là triết học Heidegger hay Jaspers, vẫn là triết học về con người, về cái gì làm nên bản thể con người. Có thể nói triết Hiện sinh là một hình thức của khoa Nhân học là mô hình của triết học hiện nay, một hình thức chỉ mới được phác họa, chưa có những phân tích cấu trúc có tính phương pháp của khoa Nhân học hôm nay. Tóm lại, phải công nhận rằng triết học Hiện sinh đã đóng vai trò lịch sử của nó một cách khá tốt đẹp. Điểm son của nó là đã tạo nên được cả một phong trào rộng lớn và sôi nổi trong giới văn học. Tiểu thuyết và báo chí hiện sinh, tuy chưa phải là triết học hiện sinh, và tuy vô tình đã gây nên lối sống quá tự do nơi một thành phần thanh thiếu niên, nhưng cũng đã gợi hứng cho nhiều thanh niên biết suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời, đừng “sống thừa ra” (survivre), sống không lý tưởng, sống như cây cỏ, như một con vật đẹp...